Lý Thường Kiệt_Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai (1075-1077)
Lý Thường Kiệt (1075)
|
Cuối thế kỷ X - đầu thế kỷ XI,
triều Tiền Lê suy thoái. Sau khi vua Lê Long Đĩnh, một người hung tàn, bạo
ngược chết, triều đình đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, lập ra triều Lý (năm
1009).
Dưới triều Lý, đất nước ta có một bước phát triển
vượt bậc. Kinh tế phát triển mạnh, quốc phòng được tăng cường, đặc biệt quân
đội đời Lý đã đạt đến trình độ tổ chức, huấn luyện và trang bị khá cao. Chính
sách “ngụ binh ư nông” được thực hiện bắt đầu từ thời kỳ này. Quốc gia
thống nhất được củng cố; quan hệ với các nước trong khu vực mở rộng và được các
nước nể trọng. Thế, lực nước ta lúc đó đang vững mạnh.
Nhà Tống là quốc gia lớn mạnh nhưng đang gặp
nhiều khó khăn. Phía Bắc và Tây Bắc bị các nước Liêu, Hạ uy hiếp. Trong nước thì
mâu thuẫn giai cấp gay gắt, các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên. Triều đình
chia bè chia cánh tranh giành quyền lực. Tống Thần Tông và Tể tướng Vương An
Thạch chủ trương xâm lược nước ta, vừa thỏa mộng bành trướng từ lâu, vừa nhằm
hướng mâu thuẫn ra bên ngoài và nếu thắng, với oai thắng trận đó, vừa giải
quyết được mâu thuẫn nội bộ, vừa chế áp được các nước Liêu, Hạ. Với ý nghĩa
chiến lược như vậy nên nhà Tống chuẩn bị cho cuộc xâm lược khá cẩn thận. Ở gần
biên giới phía Bắc nước ta, chúng chuẩn bị những căn cứ xâm lược ở các thành
trì lớn như Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu, lấy đây làm nơi xuất phát và dự trữ
hậu cần trong chiến tranh. Ở phía Nam,
chúng còn xúi giục Chiêm Thành quấy phá biên giới, âm mưu đánh nước ta từ hai
phía Bắc, Nam.
Đánh nước ta, nhà Tống tuy lực có mạnh nhưng thế
không mạnh. Triều đình nhà Lý, đặc biệt là Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt
đã theo dõi và nắm tình hình chặt chẽ. Sự chuẩn bị kháng chiến cũng rất chủ
động. Nhà Lý vừa lo ổn định vững chắc tình hình trong nước, tăng cường khả năng
quốc phòng, vừa loại trừ mối hiểm họa từ phía Nam.
Năm 1069, Lý Thánh Tông cùng Lý Thường
Kiệt đem quân vào Nam
đánh tan quân Chiêm Thành, tiến vào kinh đô bắt quốc vương Chiêm phải cắt đất
ba châu (Quảng Bình, Bắc Quảng Trị) cho nhà Lý. Sau đó Lý Thường Kiệt cho vẽ
bản đồ, khẳng định biên giới, bố trí lực lượng biên phòng rồi rút về nước. Biên
giới phía Nam
được bảo vệ vững vàng.
Sang những năm 1070, hoạt động chuẩn bị xâm lược
càng được đẩy mạnh. Quân Tống thường xuyên xâm nhập biên giới quấy nhiễu và do
thám. Thời điểm nổ ra chiến tranh đã gần kề. Lý Thường Kiệt nói: “Ngồi yên
đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của chúng”. Ông chủ
trương tiến công để tự vệ, xuất quân tập kích tiêu diệt các căn cứ xâm lược
trên đất Tống rồi nhanh chóng rút quân về tổ chức phòng thủ đất nước.
Ngày 27/10/1075, hơn 10 vạn quân Đại Việt chia
làm hai đạo nhanh chóng bất ngờ vượt biên giới đánh vào đất Tống. Một đạo quân
gồm binh lính địa phương vùng biên giới phía bắc do các tướng lĩnh người dân
tộc thiểu số: Tôn Đản, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An chỉ huy
tiến công diệt các đồn trại quân Tống ở biên giới rồi tiến về Ung Châu.
Đạo quân chủ lực do Lý Thường Kiệt chỉ huy tập
trung ở Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh) dùng thuyền vượt biển đánh chiếm Khâm Châu,
Liêm Châu tiến đến hợp quân với đạo quân đi đường bộ vây đánh thành Ung Châu.
Trên đường tiến quân, Lý Thường Kiệt cho quân phát các bản Lộ bố nói rõ mục
đích của quân ta là đánh bọn thống trị tàn ác, giải phóng dân khỏi cực khổ, lầm
than nên không những không bị dân Tống chống lại mà còn được hoan nghênh ủng
hộ. Đến lúc này triều Tống mới được tin báo, vội cho 1 vạn quân xuống ứng cứu
nhưng đến cửa ải Côn Lôn (phía bắc Ung Châu) đã bị quân Đại Việt do Lý Thường
Kiệt mai phục sẵn ở đây tiêu diệt.
Sau 42 ngày vây hãm, chiến đấu gan dạ, mưu trí,
ngày 1/3/1076, quân ta đã chiếm được Ung Châu, căn cứ chính rất kiên cố của quân
Tống. Quân ta đã đốt phá kho tàng, phá hủy thành lũy, lấy đá lấp sông để ngăn
chặn đường thủy của địch. Mục tiêu cuộc tiến công đã hoàn thành thắng lợi.
Trong khi triều Tống đang lúng túng chứ kịp phản ứng thì tháng 4/1076, quân ta
đã chủ động nhanh chóng rút quân về nước.
Cuộc tập kích chiến lược này thể hiện tư tưởng
“tiên phát chế nhân”, lấy tiến công để tự vệ của Lý Thường Kiệt. Đây là
cuộc tập kích chiến lược đầu tiên và cũng là duy nhất trong lịch sử chống xâm
lược phương Bắc. Cuộc tập kích đã kích thích sĩ khí quân dân ta, chủ động
chuẩn bị cuộc kháng chiến. Trái lại, lực lượng xâm lược Tống đã bị tiêu hao suy
yếu một phần do thất trận, mâu thuẫn nội bộ bị khoét sâu, do đó mất thế chủ
động trong chiến tranh.
Sau khi rút quân về nước, Lý Thường Kiệt dàn thế
trận kháng chiến. Qua cuộc tập kích sang đất Tống và các tin tức do thám, Lý Thường
Kiệt biết chắc quân xâm lược sẽ vào theo hướng Bắc và Đông Bắc rồi tiến đến mục
tiêu chính là chiếm kinh thành Thăng Long.
Trên những con đường tiến quân của địch, ông bố
trí các lực lượng quân địa phương cùng dân binh làm nhiệm vụ kiềm chế và tiêu
hao địch. Tại bờ Nam sông Như Nguyệt (đoạn sông Cầu từ ngã ba sông Cà Lồ và
sông Cầu, thuộc làng Như Nguyệt, xã Tam Giang, Yên Phong, Bắc Ninh) đến Phả Lại
(Chí Linh, Hải Dương), ông cho xây một phòng tuyến vững chắc, chặn đứng mọi
đường tiến quân của địch xuống Thăng Long. Phía trước là dòng sông rộng, ven bờ
có nhiều tầng cọc tre, rào tre tạo thành bãi chướng ngại, quân thủy quân bộ đều
khó vượt qua; bên bờ dựng lũy đất cao có binh lính với vũ khí trang bị đánh
quân đổ bộ túc trực ngày đêm. Trên hướng đường thủy Đông Bắc, một đạo thủy quân
trấn giữ vùng duyên hải để ngăn chặn thủy binh địch, còn đại bộ phần thủy binh đóng
ở Vạn Xuân (Phả Lại) cơ động đánh địch trên các hướng. Đại quân do Lý Thường
Kiệt trực tiếp chỉ huy đóng phía sau chiến lũy, vùng Từ Sơn (Bắc Ninh) chỉ huy,
tiếp ứng và công, thủ trên cả hai hướng thủy, bộ.
Cuối năm 1076, Tống Thần Tông và Tể tướng Vương
An Thạch hạ lệnh điều 30 vạn bộ binh và kỵ binh, trong đó có 1 vạn kỵ binh và
một đạo thủy quân do Quách Quỳ làm chánh tướng và Triệu Tiết làm phó tướng xuất
quân đánh nước ta. Với lực lượng mạnh, các mũi tấn công tập trung nên quân Tống
đã vượt qua các lực lượng đánh ngăn chặn của quân ta ở vùng biên giới, nhanh
chóng tiến đến bờ Bắc như sông Như Nguyệt. Bị phòng tuyến Như Nguyệt chặn lại,
quân Tống rải quân đóng trên trận tuyến dài 30 km từ bến đò Như Nguyệt đến chân
núi Nham Biền (Việt Yên, Bắc Giang).
Lợi dụng quân đông với chiến lược đánh nhanh
thắng nhanh, đầu năm 1077, Quách Quỳ cho bắc cầu phao tổ chức vượt sông đột phá
phòng tuyến quân ta ở bến đò Như Nguyệt nhưng bị đánh bại.
Quách Quỳ chờ thủy quân đến có phương tiện vượt
sông và phối hợp thủy bộ tiến công nhưng đạo thủy quân Tống đến bờ biển Quảng Ninh
đã bị thủy quân ta do tướng Lý Kế Nguyên đánh cho tan tác, số tàn quân phải nằm
lại ngoài đảo. Chờ thủy quân không được, Quách Quỳ ra lệnh đóng bè chở quân đổ
bộ sang bờ Nam sông Như Nguyệt nhưng phương tiện vượt sông có hạn, quân sang
lại khó vượt qua bãi chướng ngại, bị quân ta từ trên lũy cao đánh xuống, số
quân Tống vượt sông bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn. Cuộc tiến công lần thứ hai
bị thất bại thảm hại.
Muốn đánh cũng không được, Quách Quỳ phải ra
lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém” nhưng đóng lại cũng không xong, bị quân
ta tiến công, tập kích, phục kích, cắt đường vận chuyển, lương thực thiếu thốn,
doanh trại tạm bợ, thủy thổ không hợp, bệnh dịch hoành hành, quân Tống ở vào
tình thế lúng túng, bị động, chỉ lo cố thủ.
Tháng 2/1077, Lý Thường Kiệt chủ trương phản công
chiến lược. Thủy quân ta vượt sông đánh mạnh vào trận địa ở Nham Biền, vừa tiêu
diệt một bộ phận quân địch vừa nghi binh thu hút địch chú ý vào hướng này, sau
đó rút lui. Đồng thời, đại quân ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy vượt sông bất ngờ
đánh vào cánh quân Triệu Tiết, tiêu diệt quá nửa số quân Tống ở đây ước tính
vài vạn tên.
Sau trận này, quân Tống lâm vào tình trạng quẫn
bách, quân tướng đều mệt mỏi, tinh thần sa sút. Nắm tình hình đó, Lý Thường Kiệt
chủ trương kết thúc chiến tranh để “không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu
mà bảo toàn được tôn miếu”. Ông chủ động điều đình mở lối thoát cho địch.
Cuộc thương lượng “giảng hòa” để quân Tống rút về nước nhanh chóng được hai bên
thỏa thuận.
Tháng 3/1077, quân Tống rút chạy về nước trong
cảnh hỗn loạn. Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai thắng lợi hoàn toàn. Trong
cuộc chiến tranh xâm lược, nhà Tống tiêu tốn 5.190.000 lạng vàng. Quân chiến
đấu 10 vạn khi trở về chỉ còn 23.400 người, 1 vạn ngựa chỉ còn 3.174 con. Kể cả
thiệt hại trong trận tập kích chiến lược của ta thì số binh lính và dân phu bị
tiêu diệt lên đến 30 vạn, ý chí xâm lược của nhà Tống tiêu tan, 200
năm sau nhà Tống còn tồn tại nhưng không dám nói đến việc xâm lược nước ta một
lần nào nữa.
Cuộc kháng chiến chống Tống đời Lý có vị trí
đặc biệt trong lịch sử chiến tranh chống giặc ngoại xâm cũng như lịch sử phát
triển của dân tộc ta. Dựa vào sự đánh giá đúng đắn tương quan thế và lực
giữa ta với địch, tạo thời cơ chủ động sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến
tranh kết hợp với tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh tự vệ, lòng nhân
ái khoan dung của dân tộc ta thể hiện rõ rệt trong giải quyết giữa đánh và đàm.
Đánh cho quân địch thiệt hại nặng, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chủ động
thương lượng đuổi quân địch khỏi đất nước ta, kết thúc chiến tranh, khôi phục
nền độc lập. Truyền thống vừa đánh vừa đàm trong chiến tranh chống ngoại xâm
của dân tộc ta bắt đầu từ đây.
Cuộc kháng chiến chống Tống đời Lý còn có bước
phát triển mới về ý chí độc lập tự chủ, quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm của
dân tộc ta qua bài thơ bất hủ như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, tương truyền
của Lý Thường Kiệt:
“Nam
quốc sơn hà Nam
đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phậm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Được dịch là:Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phậm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
“Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
- Nguồn: Từ điển bách khoa Tri thức quốc phòng toàn dân.-H.: Chính trị Quốc gia, 2002.
Đăng nhận xét