LÝ NAM ĐẾ với công cuộc chống đô hộ nhà Lương ( 544 - 602)
Dẹp yên
cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh, nhà Ngô lấy đất Nam Hải, Thượng
Ngô và Uất Lâm làm Quảng Châu, đặt châu trị ở Phiên Ngung, lấy đất Hợp
Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam làm Giao Châu, đặt châu trị ở Long
Biên (nay là vùng Bắc Ninh). Đất Nam Việt của nhà Triệu ngày trước
thành ra Giao Châu và Quảng Châu từ đó.
Nǎm
Â't Dậu (265), nhà Tấn đánh bại Nguỵ, Thục, Ngô, đất Giao Châu lại
thuộc về nhà Tấn. Nhà Tấn phong cho họ hàng ra trấn trị các nơi, nhưng
các thân vương cứ dấy binh đánh giết lẫn nhau, làm cho anh em cốt
nhục tương tàn, nước Tấn nhanh chóng suy yếu. Nhân cơ hội ấy, các nước
Triệu, nước Tần, nước Yên, nước Lương, nước Hạ, nước Hán v.v... nổi
lên chiếm lấy cả vùng phía Bắc sông Trường Giang, nhà Tấn chỉ còn vùng
đất ở đông nam, phải dời đô về Kiến Nghiệp (Nam Kinh ngày nay) gọi là
nhà Đông Tấn.
Nǎm
Canh Thân (420), Lư Du cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía
nam. Nước Trung Quốc phân ra làm Nam Triều và Bắc Triều. Bắc Triều có
nhà Nguỵ, nhà Tề, nhà Chu, nối nhau làm vua. Nam Triều có nhà Tống,
nhà Tề, nhà Lương và nhà Trần kế nghiệp trị vì. Nǎm Kỷ Mùi (479) nhà
Tống mất ngôi, nhà Tề kế nghiệp, trị vì được 22 nǎm thì nhà Lương lại
cướp ngôi nhà Tề.
Nhà
Lương sai Tiêu Tư sang làm thứ sử Giao Châu. Cũng như các triều đại
phong kiến Trung Quốc thuở trước, các viên quan lại nhà Lương sang cai
trị Giao Châu đã áp dụng những biện pháp khắt khe, độc ác khiến dân
Giao Châu cực khổ trǎm bề, người người đều oán giận. Bởi vậy, nǎm 542,
Lý Bí đã lãnh đạo dân Giao Châu nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm giữ
thành Long Biên, lập nên nhà nước độc lập đầu tiên, nước Vạn xuân.
Lý
Bôn còn gọi là Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 nǎm Quý Mùi (17-10-503) quê
ở huyện Thái Bình, xuất thân từ một hào trưởng địa phương. Tổ tiên Lý
Bí là người Trung Quốc, lánh nạn sang nước ta từ cuối thời Tây Hán,
khoảng đầu công nguyên. Từ nhỏ Lý Bí đã tỏ ra là cậu bé thông minh,
sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất; 7 tuổi mẹ lại qua đời.
Cậu bé bất hạnh phải đến ở với chú ruột. Một hôm có một vị Pháp tổ
thiền sư đi qua, trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú liền xin Lý Bí đem
về chùa Linh Bảo nuôi dạy. Qua hơn mười nǎm đèn sách chuyên cần, lại
được vị thiền sư gia công chỉ bảo, Lý Bí trở thành người học rộng,
hiểu sâu, ít người sánh kịp.
Tháng
Giêng nǎm Nhâm Tuất (542), Lý Bí khởi binh tấn công giặc. Không đương
nổi sức mạnh của đoàn quân khởi nghĩa, thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ không
dám chống cự, vội mang của cải, vàng bạc đút lót cho Lý Bí xin được
toàn tính mạng, chạy về Trung Quốc. Không đầy 3 tháng, Lý Bí đã chiếm
được hầu hết các quận, huyện và thành Long Biên.
Tháng
hai nǎm Giáp Tý (544) Lý Bí tự xưng hoàng đế lấy hiệu là Lý Nam Đế,
đặt tên nước là Vạn Xuân (ước muốn xã tắc truyền đến muôn đời), đặt
kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) và cho dựng điện Vạn Thọ làm
nơi vua quan họp bàn việc nước. Triều đình gồm có hai ban vǎn võ. Phạm
Tu được cử đứng đầu hàng quan võ, Tinh Thiều đứng đầu quan vǎn,
Triệu Túc làm thái phó, Triệu Quang Phục là tướng trẻ có tài cũng được
trọng dụng.
Việc
Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân, tự xưng là hoàng đế, định niên hiệu,
lập một triều đình riêng ngang hàng với nước lớn Phương Bắc là sự
khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, sự bền vững muôn đời của đất
trời phương Nam.
Triều Lý khởi nghiệp từ đây.
Đầu
nǎm Â't Sửu (545), nhà Lương sau khi đàn áp những cuộc nổi dậy của
nông dân Trung Quốc đã dồn sức mở cuộc tấn công xâm lược nước Vạn Xuân
non trẻ nhằm chiếm lại Châu Giao. Quân Lương từ Gia Ninh ngược dòng
sông Lô kéo lên tấn công. Bị quân của Lý Nam Đế đánh trả quyết liệt
không tiến lên được, chúng phải đóng giữa đồng trống. Lúc này quân
lính nhà Lương đã mỏi mệt, tướng lĩnh chán nản, nhưng Trần Bá Tiên
vốn xảo quyệt, nhân một đêm mưa to gió lớn đã thúc quân tràn vào đánh
úp quân Lý Nam Đế. Lý Nam Đế phải lui vào động Khuất Lão (Tam Nông,
Phú Thọ). Anh vua là Lý Thiên Bảo cùng Lý Phật Tử (một người trong họ)
và là tướng của Lý Nam Đế đem một cánh quân lui vào Thanh Hoá. ở
động Khuất Lão, Lý Nam Đế bị đau yếu luôn nên ông trao binh quyền
cho Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương. Hai
nǎm sau, Lý Nam Đế mất vào ngày 20 tháng 3 nǎm Mậu Thìn (13-4-548).
Đăng nhận xét