CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA BÀ TRIỆU THỊ TRINH (248) chống nhà Ngô |
Khi
nói đến gương anh hùng liệt nữ, đến truyền thống đấu tranh xâm lược
của ngoại bang, người Việt Nam qua nhiều thời đại thường không quên
nhắc đến cái tên Bà Triệu bên cạnh các gương liệt nữ khác như Hai
Bà Trưng...
Triệu
thị Trinh sinh ngày 2 tháng 10 nǎm 226 (Bính Ngọ) tại huyện Nông
Cống tỉnh Thanh Hoá trong một gia đình hào trưởng. Triệu thị Trinh
là một phụ nữ có tướng mạo kỳ là, người cao lớn vú dài nǎm thước. Bà
là người tính tình vui vẻ, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, trí lực hơn
người. Truyền thuyết kể rằng, có lần xuất hiện một coi voi trắng một
ngà phá phách ruộng nương, làng xóm, lầm chết người. Triệu Thị
Trinh dũng cảm cầm búa nhảy lên đầu giáng xuống huyệt làm con voi lạ
gục đầu xin qui thuận.
Khi
nhà Ngô xâm lược đất nước gây nên cảnh đau thương cho dân chúng,
khoảng 19 tuổi Triệu thị Trinh bỏ nhà vào núi xây dựng cǎn cứ, chiêu
mộ nghĩa quân đánh giặc. Khi anh trai nhắn về nhà chồng, bà đã trả
lời tỏ rõ khí phách của mình mà đến nay không mấy người Việt Nam là
không biết: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá
Kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách
nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng là tì thiếp người ta". Truyền
thuyết kể rằng, nǎm 248 khi Triệu Thị Trinh khởi nghĩa trời đã sai
đá núi loan tin tập hợp binh sĩ trong vùng. Đêm khuya từ lòng núi đá
phát ra rằng: "Có Bà nữ tướng. Vâng lệnh trời ra. Trị voi một ngà.
Dựng cờ mở nước. Lệnh truyền sau trước. Theo gót Bà Vương". Theo đó
dân chúng trong vùng hưởng ứng nhiệt liệt, có người mang theo cả bộ
giáp vàng, khǎn vàng.... dâng cho bà. Anh trai bà là Triệu Quốc Đạt được
tôn làm Chủ tướng. Bà Triệu là Nhuỵ Kiều tướng quân (Vị tướng yêu
kiều như nhuỵ hoa). Khi ra trận Bà mặc áo giáp vàng, chít khǎn vàng,
đi guốc ngà, cưỡi voi một ngà. Quân Bà đi đến đâu dân chúng hưởng
ứng, quân thù khiếp sợ. Phụ nữ quanh vùng thúc giục chồng con ra
quân theo Bà Vương đánh giặc. Cho đến nay nhân dân vùng Thanh Hoá và
lân cận còn nhiều câu ca, lời ru con nói về sự kiện này.
Sau
hàng chục trận giao tranh với giặc, trận thứ 39 anh trai bà là
Triệu Quốc Đạt tử trận, Bà Triệu lên làm chủ tướng và lập nên một
cõi giang sơn riêng vùng Bồ Điền khiến quân giặc khó lòng đánh
chiếm. Biết bà có tính yêu sự sạch sẽ, ghét tính dơ bẩn, quân giặc
bố trí một trận đánh từ tướng đến quân đều loã thể. Bà không chịu
được chiến thuật đê hèn đó phải lui voi giao cho quân sĩ chiến đấu
rồi rút về núi Tùng. Bà quì xuống vái trời đất: "Sinh vi tướng, tử
vi thần" (Sống làm tướng, chết làm thần) rồi rút gươm tự vẫn. Sau
khi bà mất dân vùng Bồ Điền, Phú Điền vẫn nghe trên không trung
tiếng cồng thúc quân, voi gầm, ngựa hí. Bà còn phù hộ cho nhiều thủ lĩnh
sa này đánh tan quân xâm lược đất nước. Có người sau này lên làm
ngôi vua, như Lý Bô, đã xây đền, lǎng mộ để ghi nhớ công ơn của Bà.
Đến
nay chuyện Bà Triệu từ thế kỷ thứ II vẫn còn hằn đậm trong tâm thức
mỗi người Việt Nam với lòng ngưỡng mộ và tự hào. Lǎng và đền thờ Bà
vẫn còn mãi với thời gian tại huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh Hoá là di
tích lịch sử quan trọng của quốc gia là bằng chứng về niềm tự hào
một người phụ nữ liệt oanh của Dân tộc Việt Nam.
Đăng nhận xét